Chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định pháp luật

0
1330

Quyền và nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Hiện nay, trong quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động thì người lao động luôn đặt trong vị trí là bên yếu thế, dễ bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình lao động. Chính vì thế các nhà làm luật ban hành ra những chế định nhằm đảm bảo được tốt nhất quyền lợi của người lao động, đồng thời cân bằng giữa quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động. Các quy định để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong đó có quyền lợi về việc người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn khi có lý do chính đáng và đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Hợp đồng lao động, người lao động và người sử dụng lao động:

– Hợp đồng lao động được quy định tại Điều 15 của Bộ luật lao động 2012, cụ thể đây là sự thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động về việc làm có trả lương, các điều kiện làm việc, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Người lao động được quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động 2012 được xác định là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, khả năng làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, được trả lương và phải chịu sự quản lý, sự điều hành của người sử dụng lao động.

– Người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động 2012 được xác định là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã có thuê mướn, sử dụng lao động theo chế độ hợp đồng lao động

Các trường hợp người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng:

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 5 Bộ luật lao động 2012 thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật về vấn đề này. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được cụ thể hóa tại Điều 37 của Bộ luật lao động 2012 và Điều 11 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, cụ thể bao gồm các trường hợp sau:

– Một là, người lao động không được trả lương đúng thời hạn hoặc trả lương đầy đủ đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

– Hai là, người lao động không được bố trí làm việc tại đúng địa điểm làm việc;

– Ba là, người lao động không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã được thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

– Bốn là, người lao động không được bố trí theo đúng công việc theo thỏa thuận ban đầu trong hợp đồng lao động;

– Năm là, người lao động hoặc gia đình của người lao động có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến họ không thể tiếp tục thực hiện được hợp đồng lao động, bao gồm các trường hợp sau:

  • Người lao động ra nước ngoài sinh sống, định cư hoặc làm việc;
  • Vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi của người lao động bị ốm đau, tai nạn dẫn đến người lao động phải nghỉ việc để chăm sóc;
  • Gia đình người lao động gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, địch họa hoặc chuyển chỗ ở mà trong đó người lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

– Sáu là, lao động nữ đang mang thai được các cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định phải nghỉ việc;

– Bảy là, người lao động được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở tại các cơ quan dân cử hoặc người lao động được bổ nhiệm giữ chức vụ trong các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước;

– Tám là, người lao động bị cưỡng bức lao động, bị ngược đãi, bị quấy rối tình dục, cụ thể được hướng dẫn cụ thể như sau: người lao động bị đánh đập hoặc người sử dụng lao động có lời nói, có hành vi nhục mạ hoặc hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc người lao động bị cưỡng bức lao động; bị quấy rối tình dục ngay tại nơi làm việc.

– Chín là, người lao động bị ốm đau, tai nạn mà khả năng lao động chưa được phục hồi sau khi đã điều trị liên tục 90 ngày đối với người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn và 1/4 thời gian hợp đồng đối với người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng:

Đối với người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải có điều kiện bắt buộc ngoài lý do chính đáng nêu trên đó là phải báo trước cho người sử dụng lao động một khoảng thời gian hợp lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể thời gian báo trước được quy định tại khoản 2 Điều 37 Bộ luật lao động 2012 như sau:

– Đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn người lao động phải báo trước ít nhất 30 ngày; đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng phải báo trước ít nhất 3 ngày làm việc. Thời hạn này áp dụng trong trường hợp người lao động nghỉ việc với lý do người lao động hoặc gia đình của họ có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục làm việc hoặc người lao động được bổ nhiệm giữ chức vụ các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử.

– Đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn, người lao động phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp lao động nữ nghỉ việc khi mang thai.

– Đối với trường hợp lao động nữ khi mang thai mà buộc phải nghỉ việc thì thời hạn báo trước quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao động 2012 chính là thời hạn do các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.

– Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động còn lại.

Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật:

Được quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động 2012, cụ thể người lao động nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ sau:

– Một là, người lao động không được hưởng trợ cấp thôi việc;

– Hai là, người lao động phải bồi thường cho người sử dụng lao động 1/2 tháng tiền lương theo quy định trong hợp đồng lao động.

– Ba là, nếu người lao động không báo trước hoặc có báo trước nhưng không đủ thời gian quy định thì người lao động phải bồi thường cho người sử dụng lao động số tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày người lao động không báo trước.

– Bốn là, nếu người lao động được người sử dụng lao động đào tạo thêm về chuyên môn, nghiệp vụ phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật lao động 2012.

Như vậy, ta có thể thấy để đảm bảo quyền lợi cho người lao động thì luật quy định cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên để tránh trường hợp người lao động lạm dụng quyền này mà gây ảnh hưởng đến người sử dụng lao động trong quá trình sử dụng lao động, sản xuất, kinh doanh cũng như để cân bằng quyền lợi giữa hai bên trong quan hệ lao động thì luật định khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng, người lao động phải đảm bảo lý do chính đáng cũng như phải báo trước cho người sử dụng lao động một khoảng thời gian hợp lý. Đồng thời khi người lao động chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì phải có những nghĩa vụ nhất định nêu trên.

 

 

 

 

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây