Tư vấn về việc chấm dứt hợp đồng lao động

0
1216

Tôi có một số thắc mắc nhờ Luật Sư tư vấn giúp: Sau thời gian thử việc Cộng tác viên) tôi được công ty kí hợp đồng lao động (hđlđ) có thời hạn từ ngày 25/03/2015 đến ngày 31/03/2016).

Trong hđlđ có ghi: “Những vấn đề về lao động không ghi trong hđlđ này thì áp dụng qui định
Thỏa ước lao động tập thể, các qui định khác của công ty và qui định của pháp luật hiện hành”. Theo
quy định của công ty, trong đó có qui định về việc đánh giá tái kí hđlđ thì sẽ dựa vào các
tiêu chí do công ty đặt ra trong thời gian 6 tháng trước khi hết hạn hợp
đồng lao động và dựa theo các tiêu chí của công ty đặt ra thì tôi đã hoàn thành tốt
công việc nhưng đến ngày 01/04/2016 thì tôi bị chuyển sang làm Cộng tác viên và đến ngày 27/05/2016
tôi nhận được thông báo nhận sổ BHXH và quyết định thôi việc trong khi trước đó tôi không được
thông báo gì về việc tái kí hay chấm dứt hđlđ. Tôi kiến nghị lên cấp trên thì nhận được phản hồi do
không hoàn thành chỉ tiêu đặt ra trong thời hạn 3 tháng trước khi hđlđ hết hạn (thời hạn đánh giá
tái kí hđlđ do công ty đặt ra là 6 tháng trước khi hđlđ hết hạn). Vậy, rất mong Luật Sư phân tích
giúp tôi về việc công ty không đánh giá tái kí hđlđ cho tôi theo đúng qui định cũng như không thông
báo cho tôi về việc chấm dứt hđlđ như vậy là đúng hay sai. Tôi có được yêu cầu gì về quyền lợi của
mình không?Trên đây là nội dung tư vấn của V-Law
về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về việc chấm dứt hợp đồng
lao động
. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ
qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến – Số điện thoại liên hệ
1900.6198
 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.cảm ơn!

Trả lời tư vấn:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn
đến V-Law. Trường hợp của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Hợp đồng lao động của bạn có thời hạn từ ngày 25/3/2015 đến 31/3/2016
là hợp đồng xác định thời hạn khi đã thỏa mãn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 Bộ luật lao động
năm 2012:

“b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai
bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12
tháng đến 36 tháng.”

Sau khi hết thời hạn hợp đồng, bạn được chuyển sang làm cộng tác viên
được gần 60 ngày (từ ngày 1/4/2016 đến trước ngày 27/5/2016) mà không có kí kết hợp đồng lao động
mới. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật này, nếu không kí hợp đồng lao động mới thì
hợp đồng lao động xác định thời hạn trên sẽ trở thành hợp đồng không xác định thời hạn.

Điều 22. Loại hợp đồng lao
động

2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1
Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp
đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao
động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao
động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở
thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác
định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì
phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.”

Do đó, hợp đồng lao động hiện tại của bạn là hợp đồng không xác định
thời hạn. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động được quy định tại
Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012:

“1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo
hợp đồng lao động;

b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên
tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên
tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp
đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất
định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động
được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác
theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn
buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy
định tại Điều 33 của Bộ luật này.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao
động phải báo cho người lao động biết trước:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời
hạn;

b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời
hạn;

c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm
b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có
thời hạn dưới 12 tháng”

Khi đó, người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động
theo các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều trên.  Do đó, công ty đưa ra lý do: không
hoàn thành chỉ tiêu đặt ra trong thời hạn 3 tháng trước khi hđlđ hết hạn
để chấm dứt hợp đồng
lao động đối với bạn là không có căn cứ vì hợp đồng hiện tại của bạn đã là hợp đồng không xác định
thời hạn và không có liên quan đến công việc trong hợp đồng xác định thời hạn trước đó. Ngoài ra,
công ty còn vi phạm quy định về thời gian thông báo cho người lao động biết trước theo điểm a khoản
2 Điều trên: “Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;”
công ty không thông báo trước cho bạn.

Như vậy, công ty đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật căn cứ theo Điều 41 Bộ luật lao động năm 2012:

“Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Bộ luật
này.”

Để đảm bảo quyền lợi của mình bạn có thể yêu cầu công ty nhận mình
làm việc trở lại theo hợp đồng đã giao kết hoặc bằng các hình thức khác được quy định tại
Điều 42 Bộ luật này:

“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao
động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao
động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì
ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp
thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người
lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và
trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi
thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng
lao động.

4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp
đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại
khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi
thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những
ngày không báo trước.”

Nếu công ty không giải quyết thì bạn có thể làm đơn đến Thanh ra lao
động thuộc phòng lao động Thương binh xã hội để giải quyết. Nếu không hòa giải được thì có
thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân nơi công ty đó có trụ sở.

TRÂN TRỌNG.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây