Nội dung câu hỏi:
Xin chào V-law. Tôi đang công tác tại một công ty gần 800 lao động. Vừa qua Công ty tôi có một trường hợp như sau: Anh X kí HĐLĐ không xác định thời hạn tháng 3/2015, đến tháng 4/2015 do trên đường đi việc riêng a X có sử dụng rượu nên bị tai nạn giao thông (không phải tai nạn lao động) dẫn đến hôn mê, chấn thương não.
Sau 10 tháng điều trị, anh X quay trở lại Công ty viết đơn xin đi làm
lại. Công ty nhận thấy anh X vẫn chưa đảm bảo được sức khỏe cho công việc (Công ty hoạt động trong
ngành công nghiệp nặng) nên đã viết giấy giới thiệu đề nghị anh X đến Trung tâm giám định Y khoa
tỉnh để giám định tư. Sau khi có kết quả giám định anh X bị suy giảm khả năng lao động 20% và kết
luận: đau đầu điều trị không ổn định.
Công ty chúng tôi rất băn khoăn không biết nên sắp xếp anh X vào vị trí làm
việc nào? nếu phải chấm dứt hợp đồng lao động với anh X thì có đúng luật hay không? và có văn bản
nào của của nhà nước quy định về việc nhận lại người lao động sau tai nạn (không phải tai nạn lao
động) hay không? Xin cảm ơn
Trả lời tư vấn:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến V-law. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:
Thứ nhất, Công ty bạn có thể thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng lao động với
anh X theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, nếu anh X không đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động thì căn cứ theo
Điều 38 bộ luật lao động năm 2012 quy định về quyền đơn phương
“1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao
động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với
người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với
người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động
đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn
dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét
để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định
của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp
sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại
Điều 33 của Bộ luật này.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo
cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời
hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời
hạn;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1
Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn
dưới 12 tháng.”
Như vậy, người sử dụng lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
với người lao động khi có một trong những lý do trên.
Do đó, công ty bạn sẽ được phép chấm dứt hợp đồng lao động sau khi anh
bị tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người
lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động. Hoặc anh X sau khi điều trị quay trở
lại làm việc nhưng thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động thì công ty có
thể chấm dứt hợp đồng lao động.
Khi thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động với anh X công ty phải thực hiện
nghĩa vụ báo trước 45 ngày.
Nếu công ty chấm dứt hợp đồng lao động với anh X mà không có căn cứ theo
Điều 38 là chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Căn cứ theo Điều 42 bộ luật lao động năm 2012 quy định về nghĩa vụ của người
sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như
sau:
“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao
kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không
được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản
tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc
theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và
người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp
thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm
nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao
động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao
động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều
này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho
người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không
báo trước.”
Do đó, nếu công ty bạn chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với anh X
thì phải thực hiện các nghĩa vụ về bồi thường và nhận lại người lao động vào làm việc theo quy định
trên.
Việc nhận lại người lao động sau khi điều trị tai nạn không phải là tai nạn
lao động không được quy định rõ trong bộ luật lao động năm 2012. Người sử dụng lao động và người
lao động phải thực hiện theo đúng hợp đồng lao động, nhưng khi người sử dụng lao động muốn đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải có căn cứ theo quy định của pháp
luật.
Trên đây là nội dung tư vấn của V-law
về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về căn cứ chấm dứt hợp đồng
lao động với người lao động. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác
bạn vui lòng gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến –
Số điện thoại liên hệ
1900.6198
để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.