Tai nạn lao động và trách nhiệm bồi thường trong trường hợp không ký hợp đồng lao động

0
1183

Tóm tắt câu hỏi:

Em trai tôi năm nay 20 tuổi, đó được nghỉ học nên đi làm thuê. Anh P thuê em trai tôi làm bốc vác cám đến các đại lý trong địa bàn, trong khi di chuyển đi làm việc em tôi bị ngã, bị chấn thương sọ não….Hỏi: Trường hợp này có được xác định là tai nạn lao động không? Còn thời hiệu khởi kiện không? Trách nhiệm của anh P trong trường hợp này như thế nào? có phải thông qua hòa giải viên lao động trước khi khởi kiện lên tòa án không? Cơ quan nào thụ lý giải quyết?

 

Trả lời tư vấn:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và
gửi câu hỏi tới V-Law, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như
sau:

Thứ nhất, về thời hiệu khởi kiện

Điều 588 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại như sau:

“Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể
từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm.”

Như vậy, đối chiếu với trường hợp của bạn thì do sự việc xảy ra từ
tháng 2/2016 tính đến nay được 01 năm 7 tháng, trong khi thời hiệu khởi kiện mà luật cho phép là ba
năm từ thời điểm quyền lợi bị xâm phạm. Nên trường hợp em trai bạn vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu
cầu bồi thường. Đồng thời, việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại không bắt buộc phải qua hòa
giải mà có thể khởi kiện trực tiếp ra Tòa nơi anh P cư trú để giải quyết khi quyền lợi của em bạn
không được đảm bảo.

Thứ hai, xác định tai nạn lao động

Khoản 8, Điều 3 Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015 quy định như
sau:

“Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận,
chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn
liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.”

Theo đó, do em bạn xảy ra tai nạn là trong quá trình làm việc vận
chuyển, bốc vác cám tới địa chỉ của các hộ gia đình theo yêu cầu của anh P dẫn tới tình trạng sức
khỏe phải phẫu thuật bán cầu phải  mổ lấy máu tụ và mảnh xương sọ bị vỡ nát mang đi gửi
ĐH Y Hà Nội, bán cầu phải vẫn khuyết sọ, chưa thể ghép được xương sọ, mọi sinh hoạt đều do gia
đình lo. Nên trường hợp em trai bạn được xác định là tai nạn lao động.

Thứ ba, trách nhiệm bồi thường đối với trường
hợp tai nạn lao động

Để xác định trách nhiệm bồi thường của anh P trong trường hợp tai nạn
lao động này thì phải chứng minh được có tồn tại quan hệ lao động. Tuy nhiên, do giữa anh P và
em trai bạn không có ký hợp đồng lao động nên rất khó để chứng minh quan hệ lao động. Trường hợp
không chứng minh được do không có ký hợp đồng nhưng có tồn tại quan hệ thuê mướn, có trả lương –
tức phát sinh quan hệ lao động thì anh P sẽ có trách nhiệm thanh toán theo quy định Luật an toàn vệ
sinh lao động. Cụ thể:

Điều 38 Luật an toàn vệ sinh lao động quy định về trách nhiệm của
người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:

“Người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:

1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao
động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp;

2. Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều
trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:

a) Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không
nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;

b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với
những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu
người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y
khoa;

c) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không
tham gia bảo hiểm y tế;

3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp phải nghỉ việctrong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;

4. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không
hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề
nghiệp với mức như sau:

a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến
10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả
năng lao động từ 11% đến 80%;

b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp;

5. Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của
chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm
khả năng lao động tương ứng;”

Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng

Do trường hợp này em trai bạn làm việc cho anh P nên khi tai nạn xảy
ra thì anh P vẫn có nghĩa vụ bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, mức độ bồi thường còn căn cứ vào yếu tố
lỗi, nguyên nhân dẫn tới tai nạn. Nếu lỗi do cả hai bên hoặc do nguyên nhân khách quan thì trách
nhiệm bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên. Nếu lỗi hoàn toàn do anh P thì trách nhiệm
bồi thường theo quy định tại Điều 590 Bộ luật này. Trường hợp lỗi hoàn toàn do em trai thì không
phải bồi thường nhưng anh P vẫn có trách nhiệm hỗ trợ một phần cho gia đình (vì tai nạn là do trong
quá trình làm việc cho mình). Cụ thể:

Điều 590.Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.

“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe
và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp
dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc
người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe
của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn
thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có
sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Trên đây là nội dung tư vấn của V-Law về vấn đề bạn hỏi và
quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi
đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng
tôi –
Số điện thoại liên
hệ:
1900.6198


để được hỗ trợ kịp thời.

 

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây