Tư vấn về quy định về chấm dứt hợp đồng lao động

0
1228

Nội dung câu hỏi:

Chào luật sư, Hiện tại tôi đang làm việc tại công ty tư nhân tại Hà Nội, ngày làm việc từ 05/10/2015 đến nay. Thời gian từ 05/10/2015-05/11/2015 tôi có nhận và kí kết bản hợp đồng thử việc trong vòng 1 tháng. Sau khi kết thúc thời gian thử việc, tính đến nay tôi vẫn chưa nhận đc hợp đồng chính thức như đã hứa của bên sử dụng lao động.

Trong tháng 1 năm 2016, tôi có yêu cầu về HĐLĐ, thì
bên sử dụng lao động có trả lời là trong tháng 1 sẽ có, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có. Do đó, tôi
có nhu cầu xin nghỉ việc, nhưng bên phía sử dụng LĐ, yêu cầu tôi phải hoàn thành 30 ngày làm việc,
tính từ thời điểm tôi báo xin nghỉ, Hôm nay, sau khi tôi đã báo xin nghỉ, công ty ra một chính
sách mới, trong đó có thêm điều khoản là toàn bộ lương, thưởng chế độ sẽ được trả trong vòng 45
ngày kể từ khi nghỉ việc. Tôi nghĩ đây là một hành vi cố ý giữ lương của tôi. Vậy Luật sư cho tôi
hỏi, bên phía công ty làm vậy là đúng hay sai? Quy định thế nào? Xin chân thành cảm
ơn.

Trả lời tư vấn:

Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến V-Law. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

Căn cứ theo Điều 7 nghị định 05/2015/ NĐ – CP
quy định về thông báo kết quả về việc làm thử:

1. Trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời
gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 1 và 2
Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công
việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian
thử việc, người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao
động.

2. Khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao
động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 3 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người
sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử;
trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao
động với người lao động.

Như vậy, sau khi kết thúc thời gian thử việc, người
sử dụng lao động phải thông báo kết quả công việc người lao động đã làm, nếu đạt yêu cầu người lao
động phải giao kết hợp đồng lao động ngay với người lao động. Trong trường hợp này, bạn đã làm
việc được hơn 1 năm kể từ thời điểm kết thúc thời gian thử việc đạt yêu cầu người sử dụng lao
động vẫn chưa giao kết hợp đồng lao động với bạn là không đúng theo quy định của pháp
luật.

Và căn cứ theo Điều 5 nghị định 95/2013/NĐ – CP
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:

1.
Phạt tiền người sử dụng
lao động khi có một trong các hành vi: Không giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản đối với công
việc cố định có thời hạn trên 3 tháng; không giao kết đúng loại hợp đồng lao động với người lao
động theo quy định tại Điều 22 của Bộ luật Lao động theo một trong các mức sau
đây:

a)
Từ 500.000 đồng đến
2.000.000 đồng với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b)
Từ 2.000.000 đồng đến
5.000.000 đồng với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c)
Từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d)
Từ 10.000.000 đồng đến
15.000.000 đồng với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ)
Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng với vi phạm từ 301 người lao động trở
lên.

Như vậy, đối với hành vi của công
ty: không giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với bạn sau khi đã kết thúc thời gian thử
việc là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt hành chính về hành vi này, tùy từng mức độ và hành vi mà
công ty sẽ bị xử phạt với số tiền tương ứng theo quy định  của pháp luật
như trên.

Căn cứ theo Điều 37 Bộ luật lao động năm 2012 quy
định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động quy định như
sau:

1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới
12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau
đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm
làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao
động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không
đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao
động;

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn
không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân
cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ
định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90
ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời
hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất
định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết
trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định
thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1
Điều này;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1
Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại
Điều 156 của Bộ luật này.

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử
dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật
này.

Như vậy, bạn có thể thỏa thuận với công ty để xin
nghỉ việc hoặc nếu như bạn thuộc một trong các trường hợp tại khoản 1 Điều 37 thì được coi là
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật, về nguyên tắc trước khi đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động thì người lao động phải thực hiện thông báo trước một thời hạn nhất
định, đối với hợp đồng xác định từ 12 đến 36 tháng thì thời hạn là 30 ngày, tuy nhiên
công ty chưa thực hiện giao kết hợp đồng bằng văn bản sau khi đã nhận bạn chính thức vào làm
việc nên bạn không có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ thông báo trước.

Việc công ty giữ lương của bạn, trả lương, thưởng…
sau 45 ngày sau khi bạn nghỉ việc là không đúng quy định. Theo Khoản 2 Điều 47 Bộ luật lao động năm
2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể
là:

Trong thời
hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy
đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng
không được quá 30 ngày”.

 
Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng công ty có trách nhiệm trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấm đứt hợp
đồng phải thanh toán tiền lương đầy đủ cho người lao động. Có thể thấy trường hợp này công ty cố ý
kéo dài thời hạn trả lương nhưng do

bạn làm việc mà không
giao kết hợp đồng nên khi có tranh chấp xẩy ra sẽ rất khó để bảo vệ quyền lợi. Bạn nên thương lượng
để có thể lấy được tiền lương trong thời gian sớm nhất và rút kinh nghiệm khi đi làm việc ở những
nơi khác.

Trên đây là nội dung tư vấn của V-law
về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về quy định về chấm dứt hợp
đồng lao động. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến – Số điện thoại liên hệ
1900.6198
 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây