Tư vấn về vấn đề chấm dứt hợp đồng lao động và khiếu nại liên quan đến lao động

0
1160

Nội dung câu hỏi:

Chào luật sư. Tôi hiện làm cho một công ty TNNH. Tôi có kí hợp đồng một
năm với công ty. Ngày 1/1/2018 tới là hết hợp đồng (1/1/2017-1/1/2018). Vậy luật sư cho tôi
hỏi: Thứ nhất là khi hết hợp đồng công ty phải thông báo cho tôi như thế nào là đúng luật và tôi có
được hưởng lương tháng 13 như những nhân viên khác không?_Thứ hai là trong thời gian làm việc tại
công ty, công ty có đưa ra những thông báo, quy định trái với luật lao động. Vậy luật sư cho tôi
hỏi, sau khi kết thúc hợp đồng lao động tôi có thể khiếu nại lên sở lao động thương binh xã hội để
đòi lại những quyền lợi của mình hay không?Trân thành cảm ơn luật sư.

Trả lời tư vấn:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến V-law! Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 1, Điều
47, Bộ luật lao động 2012 thì trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
đó là: “1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử
dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao
động.”.
Theo đó, hợp đồng lao động giữa bạn và công ty là hợp đồng lao động xác định thời hạn
nên trước khi hết hạn hợp đồng, công ty phải thông báo trước cho bạn thời gian là ít nhất 15
ngày.

Nếu công ty không thông báo trước thì bạn vẫn có thể chấm dứt hợp
đồng khi đã hết thời hạn hợp đồng. Trong trường hợp công ty không báo trước cho bạn trong thời gian
ít nhất là 15 ngày hợp đồng hết hạn thì công ty có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
tại Khoản 1, Điều 7, Nghị định 95/2013/NĐ- CP:

“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000
đồng đối với người sử dụng lao động không thông báo bằng văn bản cho người lao động biết trước ít
nhất 15 ngày, trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn.”.

Đối với vấn đề hưởng lương tháng thứ 13 thì Điều 103, Bộ luật lao
động 2012 quy định:

“1. Tiền thưởng là khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng
cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hằng năm và mức độ hoàn thành công việc
của người lao động.

2. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố
công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ
sở”.

Theo đó, tiền lương tháng 13 (tiền thưởng) sẽ căn cứ vào kết quả sản
xuất kinh doanh của công ty cũng như mức độ hoàn thành công việc của bạn hoặc theo sự thỏa thuận
của các bên.Việc chi trả lương tháng thứ 13 được người sử dụng lao động quyết định và công khai tại
nơi làm việc. Vì vậy, bạn cần xem xét xem hợp đồng lao động kí giữa bạn và công ty có thỏa thuận về
lương tháng thứ 13 hay không, nếu có việc chi trả sẽ thực hiện theo hợp đồng lao động. Nếu hợp đồng
lao động không quy đinh về việc trả lương tháng thứ 13 thì bạn có thể xem ở nội quy, quy chế của
công ty về việc trả thưởng cho người lao động và nếu bạn đáp ứng được đầy đủ các điều kiện để được
hưởng lương tháng 13 thì bạn sẽ được hưởng lương tháng 13.

Thứ hai, theo quy định tại Khoản 1, Điều 5,
Nghị định 119/2014/NĐ-CP thì:

“1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của người sử dụng
lao động; tổ chức, cá nhân dạy nghề; tổ chức, cá nhân đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình
thì người khiếu nại thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại
Khoản 1 Điều 15, Khoản 1 Điều 16, Khoản 1 Điều 17 Nghị định này

Khoản 1, Điều 15, Nghị định này lại quy định:

“1. Người sử dụng lao động có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu đối với quyết định, hành vi của mình bị khiếu nại”

Theo đó, nếu bạn thấy những quyết định, hành vi hành chính của công
ty nơi bạn làm việc là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn thì bạn có
thể gửi khiếu nại lần đầu đến công ty yêu cầu giải quyết khiếu nại. Nếu công ty không giải quyết
được trong thời hạn 07 ngày hoặc bạn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì bạn có
thể gửi khiếu nại lần hai đến Chánh Thanh tra Sở Lao động- Thương binh và Xã hội để yêu cầu giải
quyết theo quy định tại Khoản 2, Điều 5, Nghị định 119/2014/NĐ-CP:

“2. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại theo quy định tại Khoản 1 Điều này hoặc quá thời hạn quy định tại Điều 19 Nghị định
này mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại thực hiện khiếu nại lần hai theo quy
định sau đây:

a)Đối với khiếu nại về lao động, người khiếu nại thực hiện khiếu
nại đến người giải quyết khiếu nại quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định này”

Thời hiệu khiếu nại được quy định tại Điều 7, Nghị định 119/2014/NĐ-
CP như sau:

“1. Thời hiệu khiếu nại lần đầu là 180 ngày, kể từ ngày người
khiếu nại nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi của người sử dụng lao động, của tổ chức, cá
nhân dạy nghề, của tổ chức, cá nhân đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng bị khiếu nại.

2. Thời hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày, kể từ ngày hết thời
hạn quy định tại Điều 19 Nghị định này hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định đó.

3. Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu
nại theo đúng thời hiệu quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi
công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian trở ngại đó không
tính vào thời hiệu khiếu nại.”

Như vậy, theo quy định này, bạn có thể thực hiện khiếu nại hành
vi, quyết định của công ty nếu vẫn còn trong thời hiệu khiếu nại mà không phụ thuộc vào việc hợp
đồng lao động giữa bạn và công ty đã chấm dứt.

Trên đây là nội dung tư vấn của V-Law về vấn đề bạn hỏi và
quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi
đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng
tôi –
Số điện thoại liên
hệ:
1900.6198


để được hỗ trợ kịp thời.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây