Quy định về việc chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

0
1252
Quy định về việc chấm dứt hợp đồng lao động
của người sử dụng lao động. Trách nhiệm người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng
trái luật.


 

Tóm tắt câu hỏi:

Ngày 18/9/2007, ông Tài vào làm tại một công
ty Gò Vấp. Đến nay có thời gian làm việc hơn 2 năm và có ký hợp đồng lao động xác định thời
hạn 12 tháng (ký kết theo từng năm), từ ngày 18/9/2007 đến ngày 17/10/2009. Ngày 19/11/2009 ông Tài
đang làm việc bình thường tại bộ phận của mình thì đại diện phòng tổ chức nhân sự gọi lên làm việc
và đưa ông quyết định thôi việc với lý do hết hạn hợp đồng. Hỏi: Công ty cho ông Tài nghỉ việc đúng
hay sai? Công ty hẹn để giải quyết chế độ cho ông vào ngày 15/1/2010 như vậy có đúng với quy
định của pháp luật lao động không?

Luật sư tư vấn:

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến V-Law. Với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như
sau:

Vì sự việc bạn đưa ra đã xảy ra từ năm 2009 nên
luật áp dụng sẽ là Bộ luật lao động 1994 sửa
đổi, bổ sung 2002, 2006, 2007 và các văn bản khác có liên quan.

Căn cứ Điều 37
Hợp đồng lao
động xác định thời hạn áp dụng cho những công việc xác định được thời điểm kết thúc trong khoảng
thời gian từ đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng;

Căn cứ Điều 3 Nghị định 44/2003/NĐ-CP quy định hình
thức, nội dung giao kết hợp đồng lao động quy định tại Điều 28 và Điều 29 của Bộ luật Lao động được
quy định như sau: Khi hợp đồng lao động xác định thời hạn này hết hạn mà người lao động
vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên
phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao
kết này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là
hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần hợp đồng xác định thời hạn không quá 36
tháng, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không
xác định thời hạn, nếu không ký thì đương nhiên
trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Theo thông tin anh cung cấp, hợp đồng lao động
của anh Tài với công ty là hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 12 tháng kể từ ngày
18/9/2007 và đã ký kết thêm một hợp đồng xác định thời hạn là 12 tháng nữa đến
ngày 17/10/2009 nhưng sau đó anh Tài vẫn tiếp tục làm việc cho đến ngày 19/11/2009 là quá
33 ngày so với thời điểm hợp đồng lao động xác định thời hạn ký thêm hết hạn. Như vậy trong trường
hợp này hợp đồng lao động anh Tài đương nhiên trở thành hợp đồng lao không xác định thời
hạn. Việc công ty chấm dứt hợp đồng với lí do hết hạn hợp đồng là không phù hợp với quy định của
pháp luật.

Nếu công ty nhất định cho anh Tài thôi việc vậy sẽ
thuộc trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Điều 38
quy định người sử dụng lao động đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động như sau:

“1- Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công
việc theo hợp đồng;

b) Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy
định tại Điều 85 của Bộ luật này;

c) Người lao động làm theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn ốm đau đã Điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác
định thời hạn ốm đau đã Điều trị sáu tháng liền và người lao động làm theo hợp đồng lao động dưới
một năm ốm đau đã Điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khoẻ của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao
động;

d) Do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả
kháng khác mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản
xuất, giảm chỗ làm việc;

đ) Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt
động.

2- Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
theo các Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với Ban
chấp hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng lao động
mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí
với quyết định của người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền
yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.

3- Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ
trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động
biết trước:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không
xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác
định thời hạn từ một năm đến ba năm;

c) Ít nhất ba ngày đối với hợp đồng lao động theo
mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm.”

Như vậy nếu người sử dụng lao động không đảm bảo các
điều kiện trên thì việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động này
là trái pháp luật.

Về việc công Công ty hẹn để
giải quyết chê độ cho ông vào ngày 15/1/2010 tức là sau khoảng 55 ngày sau khi chấm dứt hợp đồng
lao động cũng là không đúng với quy định của pháp luật về việc giải quyết chế độ giữa các
bên sau khi chấm dứt hợp đồng lao đông. Cụ thể theo Điều 43

thì ”
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng
lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các Khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi
bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30
ngày.”

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được
trích dẫn trong tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Để được tư
vấn, lắng nghe ý kiến tư vấn chính xác nhất và mới nhất từ các Luật sư vui lòng liên hệ với chúng
tôi qua Hotline: 1900.6198. Các Luật sư chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm của
chúng tôi sẽ tư vấn – hỗ trợ bạn ngay lập tức.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây