Hậu quả pháp lý của việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với NLĐ

0
1189
NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật với NLĐ là việc NSDLĐ chấm dứt hợp đồng lao động với NLĐ trong các trường hợp không
đúng quy định tại Điều 38 và Điều 39 của BLLĐ 2012


NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với người lao động (NLĐ) là việc NSDLĐ
chấm dứt hợp đồng lao động với NLĐ trong các trường hợp không đúng quy định tại Điều 38 và Điều 39
của BLLĐ 2012. Hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái với quy định của pháp luật của
NSDLĐ sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu là người lao động sẽ mất việc làm và mất đi thu nhập. Và để bảo vệ
người lao động cũng như ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, Điều 42 BLLĐ 2012 đã quy định những
hậu quả pháp lý mà NSDLĐ sẽ phải gánh chịu từ hành vi trái pháp luật của
mình:

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã
giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động
không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài
khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi
việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động
và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp
thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm
nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao
động.

4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao
động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều
này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường
cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày
không báo trước.
(Điều 42 BLLĐ 2012)

 

Như vậy, khi NSDLĐ thực hiện hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
(HĐLĐ) trái pháp luật sẽ dẫn việc quan hệ lao động bị chấm dứt trái pháp luật và do căn cứ chấm dứt
là trái pháp luật nên hậu quả pháp lý của hành vi này là quan hệ lao động phải được khôi
phục lại
, tức là NSDLĐ sẽ phải tiếp tục HĐLĐ với NLĐ. Ngoài việc khôi phục lại quan hệ lao
động, NSDLĐ còn phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất đối với hành vi trái pháp luật
của mình, đó là bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần đối với NLĐ khi bị đơn phương chấm
dứt HĐLĐ trái pháp luật, những thiệt hại đó gồm:

– Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày NLĐ không được
làm việc, đó là thiệt hại thực tế đối với NLĐ xuất phát từ hành vi trái pháp luật của NSDLĐ. Ngoài
ra, nếu NSDLĐ còn vi phạm về thời hạn thông báo thì còn phải bồi thường cho NLĐ khoản tiền lương
của họ trong những ngày không báo trước.

– Ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng, đây là  khoản tiền bồi
thường về mặt tinh thần đối với NLĐ.

Tuy bắt buộc NSDLĐ phải nhận NLĐ trở lại làm việc nhưng quan hệ lao động là
một mối quan hệ cần có sự hợp tác từ cả hai bên chủ thể, việc một bên trong quan hệ đã thể hiện ý
chí muốn chấm dứt quan hệ thì việc tiếp tục quan hệ là rất khó để thực hiện. Vì vậy pháp luật đã
đưa ra lựa chọn cho NLĐ về việc tiếp tục thực hiện quan hệ lao động hay không và NSDLĐ bắt buộc
phải chấp nhận những hậu quả pháp lý đối với từng trường hợp NLĐ lựa chọn, cụ
thể:

*Trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục làm việc cho NSDLĐ: khi
NLĐ không muốn tiếp tục làm việc cho NSDLĐ, luật pháp không ép buộc NLĐ và NSDLĐ phải khôi phục lại
quan hệ lao động nhưng NSDLĐ lúc này vẫn phải bồi thường những chi phí quy định tại khoản 1 Điều 42
BLLĐ và phải trả thêm trợ cấp mất việc cho NLĐ theo Điều 48 BLLĐ.

* Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ và NLĐ đồng
ý:
việc thực hiện hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng đã thể hiện ý chí của NSDLĐ không
muốn tiếp tục quan hệ lao động. Vì vậy khi pháp luật bắt buộc NSDLĐ khôi phục lại quan hệ lao động,
NSDLĐ có thể không đồng ý nhận lại NLĐ, tuy nhiên việc tiếp tục quan hệ lao động hay không lúc này
không còn phụ thuộc vào ý chí của NSDLĐ mà phụ thuộc vào ý chí của NLĐ.Nếu NSDLĐ không muốn nhận
lại NLĐ nhưng NLĐ không đồng ý thì NSDLĐ vẫn bắt buộc phải nhận lại NLĐ và bồi thường như khoản 1
Điều 42, nhưng nếu NLĐ đồng ý thì quan hệ lao động sẽ được chấm dứt và NSDLĐ ngoài phải chi trả các
khoản quy định ở khoản 2 Điều 42 BLLĐ thì còn phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng 2 tháng
lương cho NLĐ để chấm dứt hợp đồng.

* Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HĐLĐ mà
NLĐ vẫn muốn làm việc:
trong trường hợp này, dù không có công việc trong HĐLĐ cho NLĐ làm
nữa, NSDLĐ cũng vẫn bắt buộc phải nhận lại NLĐ do NLĐ vẫn muốn tiếp tục làm việc, thể hiện quyền
được lựa chọn của NLĐ. NSDLĐ phải sửa đổi, bổ sung HĐLĐ để nhận lại NLĐ làm việc và phải trả khoản
bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 42.

Tóm lại, khi thực hiện hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ
trái pháp luật, NSDLĐ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hành vi của mình và việc
quan hệ lao động có chấm dứt hay không sẽ phụ thuộc vào quyết định của NLĐ.

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được
trích dẫn trong tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Để được tư
vấn, lắng nghe ý kiến tư vấn chính xác nhất và mới nhất từ các Luật sư vui lòng liên hệ với chúng
tôi qua Hotline: 1900.6198. Các Luật sư chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm của
chúng tôi sẽ tư vấn – hỗ trợ bạn ngay lập tức!

Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn
về luật lao động của chúng tôi.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây