Trang chủ Tư vấn pháp luật lao động Đặc điểm của quan hệ pháp luật lao động

Đặc điểm của quan hệ pháp luật lao động

0
7332

Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Hồ Thị Ngọc Ánh – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Quan hệ pháp luật lao động giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) được xác lập, thực hiện, duy trì và chấm dứt trên cơ sở các quy định cùa pháp luật lao động.

Luật gia Nguyễn Thị Mai – Công ty Luật TNHH Everest, tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198

Quan hệ pháp luật lao động là gì?

Quan hệ pháp luật lao động là các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng sức lao động của người lao động ở các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, các hợp tác xã, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các gia đình hay cá nhân có thuê mướn lao động, được các quy phạm pháp luật lao động điều chỉnh.

Quan hệ pháp luật lao động thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ pháp luật này người lao động phải hoàn thành công việc như đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, chấp hành nội quy lao động và chịu sự quản lý điều hành của người chủ. Ngược lại, người sử dụng lao động phải đảm bảo trả lương và chế độ khác cho người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động phù hợp với pháp luật và thỏa ước lao động tập thể.

Đặc điểm của quan hệ pháp luật lao động

Quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ có thể thấy ba đặc điểm lớn sau đây:

Thứ nhất, trong mối quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ, NLĐ phải tự mình thực hiện công việc

Tự mình thực hiện công việc tức là tự mình thực hiện các hành vi lao động cần thiết để tiến hành, hoàn thành công việc. NLĐ phải bằng chính hành vi của mình, bằng sức lực, thao tác kĩ năng của mình để thực hiện công việc mà không được sử dụng biện pháp thay thế nghĩa vụ đó bằng cách chuyển giao cho người khác, nhất là người không phải là người có quan hệ lao động với NSDLĐ đó.

Theo quy định của pháp luật, công việc theo hợp đồng lao động phải do NLĐ đã giao kết hợp đồng thực hiện, điều đó khẳng định NLĐ khi giao kết hợp đồng lao động thì phải tự mình thực hiện công việc đã cam kết trong hợp đồng lao động đó. Điều này làm cho quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ khác hẳn với quan hệ lao động ở dạng khoán việc dân sự do luật dân sự điều chỉnh hay quan hệ lao động giữa NLĐ là thành viên của gia đình thực hiện các công việc trong quá trình duy trì sinh hoạt gia đình do Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh.

Thứ hai, NSDLĐ có quyền quản lý đối với NLĐ

Đặc điểm này nói lên quyền kiểm soát của NSDLĐ đối với quá trình thực hiện công việc cùa NLĐ. Quyền quản lý lao động là một quyền bao hàm nhiều khía cạnh, có tính chất toàn diện của NSDLĐ. Nội dung của quyền quản lý lao động gồm quyền tuyển chọn, phân công, sắp xếp, điều động, giám sát, khen thưởng, xử phạt… đối với NLĐ. Tuy nhiên, mọi hoạt động thuộc hành vi quản lý của NSDLĐ phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, NSDLĐ cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi quản lý lao động của mình.

Hoạt động kiểm soát quá trình thực hiện công việc của NLĐ được thực hiện bởí chính chủ sử dụng lao động là cá nhân hoặc đại diện hợp pháp của đơn vị sử dụng lao động nếu đó là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Các biện pháp khác nhau sẽ được sử dụng để thực hiện quyền kiểm soát nhằm đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng lao động. Trong đó, có những biện pháp trực tiếp và những biện pháp gián tiếp thông qua những người lãnh đạo thuộc cấp do chính NSDLĐ cử ra.

Thứ ba, trong quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ có sự tham gia của đại diện lao động

Đặc điểm này khẳng định tính đặc thù của quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ so với các quan hệ lao động khác trong xã hội. Sự tham gia của đại diện lao động vào quá trình xác lập, thực hiện, duy trì, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ được tiến hành bằng nhiều biện pháp, trong đó có những biện pháp gián tiếp (tham gia xây dựng kế hoạch, quy hoạch, chính sách, pháp luật lao động…) và những biện pháp trực tiếp (giúp đỡ cho NLĐ trong quá trình ký kết hợp đồng lao động, đại diện và bảo vệ NLĐ trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động…).

Sự tham gia của đại diện lao động, đặc biệt là tổ chức công đoàn có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi, với tư cách cá nhân, kể cả phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn, NLĐ không có nhiều khả năng đạt được sự bình đẳng thực tế với NSDLĐ. Yếu tố tập thể mang tính khách quan trong hoạt động của đại diện lao động là một trong những đảm bảo tốt cho NLĐ tiếp cận với sự bình đẳng.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật lao động được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Không bình luận