Trường hợp người chủ sử dụng lao động chấm dứt HĐLĐ với người lao động mà không phải bồi thường

0
1202

Nội dung câu hỏi:

Chào Luật Sư! Em có một số vướng mắc về việc Công ty đơn phương chấm dứt HĐLĐ mong
Luật Sư hỗ trợ tư vấn để em hiểu rõ hơn về Luật lao động. Cụ thể, em làm việc công ty X từ
ngày 10/4/2017. Đến ngày 01/10/2017 thì công ty mới bắt đầu ký HĐLĐ và đóng tiền BHXH cho em. HĐLĐ
của em là loại không xác định thời gian (chỉ ký có 1 bản và phía công ty giữ).Ngày 14/12/2017 công
ty buộc em nghỉ việc với lý do là em không phù hợp với môi trường công ty. Và yêu cầu em nghỉ việc
ngay trong ngày.Ngày 12/01/2018 công ty trả sổ BHXH, quyết định thôi việc cho em, và yêu cầu em
phải ký bản thanh lý HĐLĐ, biên bản bàn giao sổ BHXH thì mới trả sổ BHXH.Như vậy công ty đã chấm
dứt HĐLĐ có luật đúng không ạ? Em có được nhận bồi thường không ạ? Hiện tại phía công ty đã
giữ HĐLĐ và bắt em ký vào bảng thanh lý HĐLĐ thì em có thể kiện cty để được nhận bồi thường được
không ạ? Và cơ quan nào để kiện ạ, Rất mong Quý Luật Sư hỗ trợ tư vấn cụ thể để em có thể thực hiện
đúng quyền lợi và trách nhiệm của người lao động đúng theo pháp luật.Em chân thành cảm ơn phía Luật
Sự.

Trả lời: 

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi đến V-law, với câu hỏi của bạn chúng
tôi xin trả lời như sau

Công ty chỉ có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp quy định tại Điều 38 Bộ luật lao động 2012

Điều 38. Quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

1. Người sử
dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau
đây:

a) Người lao
động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

b) Người lao
động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng
lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng
lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao
động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe
của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao
động;

c) Do thiên
tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao
động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm
việc;

d) Người lao
động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật
này.”

Tuy nhiên việc
bạn đồng ý ký vào biên bản thanh lý HĐLĐ thì được coi là trường hợp 2 bên đã đồng ý thỏa thuận chấm
dứt hợp đồng lao động, đây là một trong các căn cứ để chấm dứt HĐLĐ theo điều 36 Bộ luật lao động
2012 “Điều 36. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động

1. Hết hạn
hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

2. Đã hoàn
thành công việc theo hợp đồng lao động.

3. Hai bên
thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

……”

Vì vậy
công ty sẽ không có trách nhiệm bồi thường cho bạn nếu trong trường hợp này

Tuy nhiên, Nếu
có căn cứ chứng minh việc bạn ký vào biên bản thanh lý HĐLĐ là do bị cưỡng ép thì Bạn có thể gửi
đơn lên Tòa án nhân dân quận ( huyện ) nơi công ty đặt trụ sở để tuyên bố biên bản thanh lý hợp
đồng này vô hiệu. Công ty phải tiếp tục thực hiện HĐLĐ với bạn, nếu  công ty đơn phương chấm
dứt HĐLĐ với bạn không dựa trên những căn cứ trên thì đây là trưởng hợp công ty đơn phương chấm dứt
trái pháp luật với bạnvà sẽ có nghĩa vụ theo Điều 42 Bộ luật lao động 2012 ” Điều
42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật

1. Phải nhận
người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Trường
hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản
1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật
này.

3. Trường
hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài
khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48
của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Trường
hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm
việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa
đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

5. Trường
hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền
tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

Trên đây là nội
dung tư vấn của V-law về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần
luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn
pháp luật trực tuyến của chúng tôi –
Số
điện thoại liên hệ:
1900.6198
 để
được hỗ trợ kịp thời.

Trân
trọng.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây