Tranh chấp lao động liên quan đến tiền lương

0
1386

 

Khi chấm dứt hợp đồng mà không được thanh lý lương, người lao động phải làm thế nào để khởi kiện công ty và đòi quyền lợi cho mình?

Nội dung tư vấn:

Tôi có vẫn đề cần được tư vấn như sau:Tôi làm tại công ty nhà nước về nghành lắp máy được 15 năm.
Đến ngày 13/11/2017 tôi xin thanh lý hợp đồng ( hợp đồng của tôi không xác định thời hạn) nhưng đến
nay công ty vẫn giữ lương của tôi thì có vi phạm pháp luật không?Tôi xin trình bày cụ thể như sau.
Tôi làm giám đốc một nhà máy của công ty và nhận hợp đồng khoán. Trong thời gian làm dự án từ tháng
6/2017 do chưa quyết toán xong hợp đồng và để chia lương cho người lao động tôi có làm tờ trình vay
lương và cam kết chấp nhận giữ 40% lương hàng tháng của tôi đến khi trả hết số lương đã vay. Nhưng
đến ngày 16/10/2017 tôi làm đơn xin nghỉ việc và được ban tổng giám đốc đồng ý để tôi bàn giao.
Trong biên bản bàn giao tôi đã bàn giao cả số nợ cho người tiền nhiệm trong đó thể hiện rõ số tiền
lượng nợ công ty và nguồn lương trả mà công ty đang giữ của tôi cho người tiền nhiệm. Hai bên ký
kết.Đến nay công ty vẫn giữ tiền lương 40% hàng tháng của tôi và số tiền theo hợp đồng khoán còn.
Mặc dù tôi đã nhận được sổ bảo hiểm và quyết định thôi việc, hồ sơ giấy tờ liên quan.Tôi đã liên hệ
bằng điện thoại với phòng tổ chức tiền lương của công ty và được trả lời tổng giám đốc bảo để
lại. Vậy xin hỏi tôi phải làm thế nào để khởi kiện công ty và đòi quyền lợi cho mình.Xin trân
trọng cảm ơn!

Trả lời tư vấn:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư
vấn đến V-Law, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Căn cứ Khoản 2 Điều 47 Bộ luật lao động 2012 về
Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:

“2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng
lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi
bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.”

Theo đó, người sử dụng lao động có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các
khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong đó có tiền lương.

Mà Điều 96 Bộ luật lao động 2012 quy định về Nguyên tắc trả
lương:

Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng
thời hạn.

Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không
được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít
nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả
lương.

Như vậy, công ty đã vi phạm nguyên tắc trả lương theo quy định của
pháp luật lao động hiện hành.

Vậy, để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, anh/chị có
thể thỏa thuận, yêu cầu công ty trả đầy đủ lương theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp công
ty vẫn không trả đủ lương, anh/chị có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trước khi
khởi kiện thì buộc tranh chấp này phải thông qua thủ tục hòa giải theo quy định tại Điều
201
:

1. Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải
của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây
không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh
chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao
động;

c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao
động;

d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã
hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế;

đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu
hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải.

3. Tại phiên họp hoà giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên
tranh chấp có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải.

Hoà giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương
lượng. Trường hợp hai bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải
thành.

Trường hợp hai bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động
đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận phương án hoà giải, hoà
giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành.

Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một
bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng,
thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không thành.

Biên bản có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hoà giải viên lao
động.

Bản sao biên bản hoà giải thành hoặc hoà giải không thành phải
được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản.

4. Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên
không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo
quy định tại khoản 2 Điều này mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì mỗi bên tranh
chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.

Tuy nhiên, cần phải lưu ý thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân vẫn còn theo Điều 202 Bộ luật lao động 2012.

Nếu hòa giải thành mà doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng; hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn pháp luật quy định thì người
lao động có thể gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi doanh nghiệp đặt trụ sở (căn cứ
theo các Điều 32, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

Trên đây là nội dung tư vấn của V-Law về vấn đề bạn hỏi và
quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi
đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng
tôi –
Số điện thoại liên
hệ:
1900.6198

để được hỗ trợ kịp thời.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây