Quy định về giải quyết tranh chấp lao động theo Luật lao động mới

0
1224

Ngày 01/01/2021, Bộ luật Lao động năm 2019 sẽ có hiệu lực. Theo đó, quy định về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động đã được thay đổi đáng kể.

giải quyết tranh chấp
Luật sư tư vấn pháp luật – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

– Khái niệm về tranh chấp lao động

Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Lao động năm 2019 ghi nhận: “Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động”.

Trong khi đó, khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 chỉ giải thích ngắn gọn rằng: “Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động”.

Đối chiếu với nhau, có thể thấy khái niệm về tranh chấp lao động theo quy định mới đã được định nghĩa một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Điều này góp phần giúp việc xác định tranh chấp nào là tranh chấp lao động trở nên dễ dàng hơn.

– Thay đổi trong nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động

Nếu như Bộ luật Lao động năm 2012 quy định việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.

Đến Bộ luật Lao động năm 2019, nguyên tắc này đã bị bãi bỏ. Do đó, hai bên trong tranh chấp lao động không còn bắt buộc phải trực tiếp thương lượng để giải quyết.

Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động cũng cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

(i) Tôn trọng quyền tự định đoạt thông qua thương lượng của các bên trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp lao động;

(ii) Coi trọng giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật;

(iii) Công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật;

(iv) Việc giải quyết tranh chấp lao động được tiến hành sau khi có yêu cầu của bên tranh chấp hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được các bên tranh chấp đồng ý…

– Cơ quan chuyên môn về lao động là đầu mối tiếp nhận yêu cầu giải quyết tranh chấp

Đây là quy định hoàn toàn mới so với Bộ luật Lao động năm 2012. Điều 181 Bộ luật Lao động năm 2019 nêu rõ khi có yêu cầu, cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân là đầu mối tiếp nhận yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động.

Cơ quan này có trách nhiệm phân loại, hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các bên trong giải quyết tranh chấp.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, cơ quan tiếp nhận phải chuyển yêu cầu đến hòa giải viên lao động (trường hợp bắt buộc phải hòa giải), chuyển đến Hội đồng trọng tài (trường hợp yêu cầu Hội đồng trọng tài giải quyết) hoặc hướng dẫn gửi đến Tòa án để giải quyết.

– Thêm lựa chọn trong giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 

Điều 187 Bộ luật Lao động năm 2019 ghi nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động thuộc về một trong các cơ quan, tổ chức, cá nhân sau:

(i) Hòa giải viên lao động;

(ii) Hội đồng trọng tài lao động;

(iii) Tòa án nhân dân.

Đối chiếu với Bộ luật Lao động năm 2012, có thể thấy, quy định này đã bổ sung Hội đồng trọng tài lao động vào các đối tượng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân.

Như vậy, từ ngày 01/01/2021, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận về việc lựa chọn giải quyết tranh chấp lao động thông qua Hội đồng trọng tài lao động.

– Thêm 3 trường hợp tranh chấp lao động cá nhân không cần hòa giải

Về nguyên tắc, tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 188 BLLĐ năm 2019 cũng liệt kê các trường tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc tiến hành hòa giải:

(i) Kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

(ii) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

(iii) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;

(iv)  Về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

(v) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

(vi) Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại;

So với khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012, quy định này đã bổ sung 03 trường hợp không cần hòa giải: tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại; về bảo hiểm thất nghiệp; về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

– Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật lao động nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây