Có được chấm dứt hợp đồng lao động đối với giáo viên khi không có nhu cầu sử dụng?

0
1284

 

Có được chấm dứt hợp đồng lao động đối với
giáo viên khi không có nhu cầu sử dụng? Chấm dứt hợp đồng lao động với giáo
viên.


Tóm tắt câu hỏi:

Xin chào luật sư. Tôi muốn xin nhờ luật sư tư vấn
giúp. Tôi là giáo viên được UBND huyện Yên Định Tỉnh Thanh Hóa kí hợp đồng lao động từ tháng
11/2007. Đến tháng 6/2008 UBND kí tiếp hợp đồng không thời hạn cho tôi. Từ đó đến nay tôi luôn hoàn
thành tốt mọi công việc. Nhưng từ 1/9/2016 này UBND huyện chấm dứt hợp đồng lao động với tôi với lí
do chưa có nhu cầu sử dụng. Hiện tại tôi đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Luật sư cho tôi hỏi
việc chấm dứt hợp đồng lao động với tôi có đúng pháp luật không.? Tôi sẽ được hưởng những quyền lợi
gì? Khi UBND huyện tiếp tục có nhu cầu sử dụng lao động tôi có được xem xet để tiếp tục làm việc
không? Xin cảm ơn và nhờ luật sư giải đáp giúp?

Luật sư tư vấn:

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập
– Phòng tư vấn trực tuyến của V-Law. Với thắc mắc của bạn, tôi xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như
sau:

Trong trường hợp này cần phải xác định bạn là người
lao động theo hợp đồng hay viên chức.

Trường hợp bạn là người lao động theo hợp động lao
động thì áp dụng quy định của Bộ luật lao động năm 2012 như sau:

– Căn cứ Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 quy định
về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao đông như
sau:

“Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động của người sử dụng lao động

1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành
công việc theo hợp đồng lao động;

b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị
12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06
tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời
hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì
người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất
khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc
phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc
sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động
không xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác
định thời hạn;

c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp
quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”

Như vậy, trong trường hợp bị người sử dụng lao động
chấm dứt hợp động lao động khi có một trong các căn cứ trên. Như vấn đề của bạn, người sử
dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do chưa có như cầu sử dụng là trái với
quy định của pháp luật.

1900.6198

– Căn cứ Điều 42 Bộ luật lao động năm
2012 quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật như sau:

“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao
động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc
theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong
những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục
làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải
trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn
nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại
khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận
khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để
chấm dứt hợp đồng lao động.

4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã
giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi
thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao
động.

5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo
trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao
động trong những ngày không báo trước.”

Đối với hành vi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật, người sử dụng lao động phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 42 Bộ
luật lao động năm 2012 nêu trên.

Trường hợp bạn là viên chức đã qua xét tuyển hoặc
thi tuyển thì áp dụng quy định của Luật viên chức năm 2010 như sau:

“Điều 29. Đơn phương chấm dứt hợp đồng
làm việc

1. Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương
chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các trường hợp sau:

a) Viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại
đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm vụ;

b) Viên chức bị buộc thôi việc theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 57 của Luật này;

c) Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục, viên chức làm việc theo hợp đồng
làm việc xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 06 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi
phục. Khi sức khỏe của viên chức bình phục thì được xem xét để ký kết tiếp hợp đồng làm
việc;

d) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất
khả kháng khác theo quy định của Chính phủ làm cho đơn vị sự nghiệp công lập buộc phải thu hẹp quy
mô, khiến vị trí việc làm mà viên chức đang đảm nhận không còn;

đ) Khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt
động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc,
trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải
báo cho viên chức biết trước ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hoặc
ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng làm việc xác định thời hạn. Đối với viên chức do cơ quan quản lý
đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tuyển dụng, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc do người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý
đơn vị sự nghiệp công lập.

3. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập
không được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các trường hợp
sau:

a) Viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn, đang điều
trị bệnh nghề nghiệp theo quyết định của cơ sở chữa bệnh, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản
1 Điều này;

b) Viên chức đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc
riêng và những trường hợp nghỉ khác được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập cho
phép;

c) Viên chức nữ đang trong thời gian có thai,
nghỉ thai sản, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt
động.

4. Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhưng phải thông báo bằng văn bản cho
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 45 ngày; trường hợp viên chức ốm đau
hoặc bị tai nạn đã điều trị 06 tháng liên tục thì phải báo trước ít nhất 03
ngày.

5. Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác
định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp
sau:

a) Không được bố trí theo đúng vị trí việc làm,
địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm
việc;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc không được
trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc;

c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao
động;

d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh
khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;

đ) Viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ
định của cơ sở chữa bệnh;

e) Viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị
từ 03 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục.

6. Viên chức phải thông báo bằng văn bản về việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít
nhất 03 ngày đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và e khoản 5 Điều này; ít nhất
30 ngày đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 5 Điều này.”

Như vậy, trường hợp bạn bị chấm dứt hợp đồng làm
việc khi đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là trái quy định của pháp luật.

– Căn cứ Điều 30 Luật viên chức năm
2010 quy định về giải quyết tranh chấp về hợp đồng làm việc như sau:

“Điều 30. Giải quyết tranh chấp về hợp
đồng làm việc

Tranh chấp liên quan đến việc ký kết, thực hiện
hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc được giải quyết theo quy định của pháp luật về lao
động.”

Trong trường hợp này, bạn có thể khiếu nại với cơ
quan có thẩm quyền về việc chấm dứt hợp đồng làm việc Việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng
làm việc được giải quyết theo quy định của pháp luật về lao động nêu trên.

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được
trích dẫn trong tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Để được tư
vấn, lắng nghe ý kiến tư vấn chính xác nhất và mới nhất từ các Luật sư vui lòng liên hệ với chúng
tôi qua Hotline: 1900.6198. Các Luật sư chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm của
chúng tôi sẽ tư vấn – hỗ trợ bạn ngay lập tức!

Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn
về luật lao động của chúng tôi.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây