Tranh chấp lao động cá nhân không phải qua hòa giải

0
1400
Một số tranh chấp lao động cá nhân không
phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết được
quy định tại Bộ Luật Lao động 2012.


Hòa giải luôn là con
đường hữu hiệu để giải quyết tranh chấp của các chủ thể. Trong đó, với tranh chấp lao động cá nhân,
pháp luật coi thủ tục hòa giải qua hòa giải viên lao động như một thủ tục bắt buộc tiền tố tụng.
Hoà giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương lượng. Trường hợp hai bên thỏa thuận
được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành

.Tòa án chỉ thụ lý giải quyết nếu
tranh chấp đó đã được hòa giải viên tiến hành hòa giải nhưng không thành (thể hiện ở Biên bản hòa
giải không thành) hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải
thành hoặc

hòa giải viên không giải quyết trong thời hạn 05 ngày kể từ
ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải.

Thông qua hòa giải, người sử dụng lao động và người lao động
có thể tháo gỡ những mâu thuẫn, bất đồng một cách nhanh chóng, đạt được lợi ích của mình mà không
ảnh hưởng tới mối quan hệ của hai bên.

Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất nghiêm trọng (như tranh
chấp về vấn đề xử lý kỷ luật sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động) hay phức tạp (như
tranh chấp giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài) của một số trường hợp tranh chấp, khi mà hòa giải phần lớn có nguy cơ không
giải quyết triệt để được vấn đề hoặc mang đến những bất lợi nhất định cho phía người lao động, pháp
luật cũng quy định các trường hợp ngoại lệ là các tranh chấp không bắt buộc phải thông qua hòa
giải.

Khoản 1, Điều 201, Bộ Luật Lao động 2012 quy
định:

“Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa
giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động
sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

– Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc
tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

– Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng
lao động;

– Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao
động;

– Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.

– Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh
nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng.

Như vậy, với các tranh chấp trên, người sử dụng lao động và
người lao động có thể bỏ qua thủ tục hòa giải, trực tiếp nộp đơn lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền
để được giải quyết, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị vi phạm.

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được
trích dẫn trong tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Để được tư
vấn, lắng nghe ý kiến tư vấn chính xác nhất và mới nhất từ các Luật sư vui lòng liên hệ với chúng
tôi qua Hotline: 1900.6198. Các Luật sư chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm của
chúng tôi sẽ tư vấn – hỗ trợ bạn ngay lập tức.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây